Khoa học công nghệ

Kinh tế tuần hoàn: Nền tảng của sự phát triển bền vững

  • 08/07/2020
  • “Thế giới đang cần một nền kinh tế tuần hoàn (KTTH). Hãy giúp chúng tôi biến điều đó thành hiện thực”. Đó là lời kêu gọi của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) được phát đi trên chính trang web của mình vào đầu năm nay. Hưởng ứng lời kêu gọi này, tập đoàn Unilever cam kết giảm lượng bao bì nhựa 14% mỗi năm, Adidas đặt mục tiêu tăng gần gấp đôi lượng giày sản xuất sử dụng nhựa tái chế lên 20 triệu đôi (so với 11 triệu năm 2019), Nestle giảm bao bì nhựa, còn Google bắt đầu tư vấn cho các công ty tận dụng dữ liệu để quản lý tài nguyên tốt hơn…

    PGS.TS Nguyễn Hồng Quân - Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển KTTH ĐHQG-HCM. Ảnh: NVCC

    Thế nào là KTTH? Điều gì khiến cho các tên tuổi kinh tế lớn phải cam kết thực hiện theo lời kêu gọi của WEF? Nhân dịp ĐHQG-HCM thành lập Viện Nghiên cứu phát triển KTTH (ICED) đầu tiên tại Việt Nam, Bản tin ĐHQG-HCM đã có cuộc trao đổi với PGS.TS Nguyễn Hồng Quân - Viện trưởng ICED về các vấn đề trên.

    Giảm lệ thuộc kinh tế ngoại quốc

    * Trong khoảng 5 năm gần đây, chủ đề “KTTH” được thảo luận trên các diễn đàn kinh tế và truyền thông quốc tế cũng như Việt Nam. Thưa ông, vì sao vấn đề KTTH ngày càng được nhiều người quan tâm?

    - Cuộc cách mạng công nghiệp mang lại sự phát triển thần tốc đồng thời đặt ra những thách thức to lớn như: tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng nguồn tài nguyên thiết yếu để phát triển xã hội, dân số gia tăng nhanh chóng, sự biến đổi khí hậu cùng những phát sinh nguồn thải ảnh hưởng xấu đến môi trường sống của con người… Kinh tế thẳng (hay kinh tế tuyến tính) là khái niệm được sử dụng trong các nền kinh tế trước đây. Nền kinh tế này vận hành như một dòng chảy, biến các nguồn tài nguyên thiên nhiên thành vật liệu và sản phẩm cơ bản rồi bán ra thông qua một loạt bước tạo thêm giá trị gia tăng, theo xu hướng bán được càng nhiều càng tốt. Từ đó dẫn đến việc sử dụng quá mức, gây cạn kiệt nguồn tài nguyên trong khi nhu cầu đòi hỏi phát triển lại ngày càng gia tăng (do áp lực của gia tăng dân số toàn cầu).

    Khái niệm KTTH được sử dụng chính thức đầu tiên bởi Pearce và Turner (1990). Nó dùng để chỉ mô hình kinh tế mới dựa trên nguyên lý cơ bản “mọi thứ đều là đầu vào đối với thứ khác”, hoàn toàn không giống với cách nhìn của nền kinh tế tuyến tính truyền thống. Ellen MacArthur Foundation mô tả nền KTTH là một hệ thống công nghiệp phục hồi hoặc tái tạo theo ý định và thiết kế. Nó chuyển sang sử dụng năng lượng tái tạo, loại bỏ việc sử dụng các hóa chất độc hại và chất thải gây suy giảm khả năng tái sử dụng thông qua thiết kế ưu việt của vật liệu, sản phẩm, hệ thống và trong phạm vi này, là các mô hình kinh doanh. Hay nói một cách đơn giản KTTH là biến rác thải đầu ra của ngành này thành nguồn tài nguyên đầu vào của ngành khác hay tuần hoàn trong nội tại bản thân của một doanh nghiệp. KTTH một phần góp phần gia tăng giá trị cho doanh nghiệp, giảm khai thác tài nguyên, giảm chi phí xử lý chất thải, giảm thiểu ô nhiễm môi trường.

    Nghiên cứu gần đây, công bố ngày 13/6/2020 trên tạp chí hàng đầu về môi trường trên thế giới (Resources, Conservation and Recycling) cho thấy áp dụng KTTH là một trong những giải pháp góp phần giải quyết vấn đề chuỗi giá trị toàn cầu, nâng cao khả năng hồi phục sức khỏe và chiến lược y tế đối với dịch bệnh, như COVID-19.

    Như vậy, trong bối cảnh hiện nay, việc chuyển đổi từ kinh tế thẳng sang KTTH là thiết yếu đối với tất cả quốc gia trên thế giới.

    * Theo ông, việc áp dụng chính sách KTTH sẽ tạo ra những thay đổi gì cho Việt Nam?

    - Việc áp dụng chính sách KTTH tạo ra một số thay đổi cơ bản cho Việt Nam. Trước nhất, thay đổi chất lượng môi trường sống. Do đặc tính của KTTH là biến rác thải của ngành này thành nguồn tài nguyên của ngành kia dẫn đến “zero waste” hay nền kinh tế không rác thải, giảm nguồn ô nhiễm môi trường, nâng cao chất lượng sống, một cách gián tiếp cải thiện sức khỏe cho cộng đồng. Đồng thời nền KTTH cũng góp phần làm giảm phát thải nhà kính và biến đổi khí hậu.

    Tiếp đến, mô hình kinh tế này giúp tìm kiếm và phát triển công nghệ mới để sử dụng các nguồn tài nguyên thay thế cho nguyên liệu thô và năng lượng hóa thạch, đặc biệt là than đá và dầu khí. Các loại tài nguyên này của Việt Nam đang cạn kiệt dần và phần lớn phải nhập khẩu từ nước ngoài.

    Bên cạnh đó, KTTH giúp Việt Nam tránh lệ thuộc vào nền kinh tế bên ngoài, nhất là về nguyên liệu và nhiên liệu phục vụ cho sản xuất. Sự phụ thuộc này có thể dẫn đến căng thẳng về chính trị toàn cầu. Giá nguyên liệu thô tăng thường kéo theo những hệ quả tiêu cực cho sự ổn định của nền kinh tế, nhất là đối với các nước nghèo.

    Sau cùng, mô hình KTTH sẽ giúp nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế. Mô hình này tạo ra các cơ hội kinh tế, đặc biệt đối với doanh nghiệp và nhà khoa học trong hoạt động thiết kế, tái chế và sáng tạo. Việc giải quyết các vấn đề liên quan đến tình trạng khan hiếm nguyên liệu, sử dụng năng lượng bền vững, hạn chế rác thải tối đa trong từng công đoạn của vòng đời sản phẩm, tái sử dụng nguyên vật liệu có sẵn… đòi hỏi sự đầu tư đáng kể về nguồn nhân lực khoa học có trình độ, góp phần làm tăng tính cạnh tranh cho nền kinh tế.

    Ngoài ra, nền KTTH còn tạo nên sự thay đổi về nhận thức của từng cá nhân khi chất lượng sống được cải thiện. Mỗi cá nhân khi nhận thức được tác động tích cực mà nền KTTH mang lại, họ sẽ góp phần không nhỏ trong việc hoàn thiện nền kinh tế này.

    Hệ sinh thái Doanh nghiệp - Chính phủ - Đại học

    * Các vấn đề về ô nhiễm môi trường do sản xuất công nghiệp từng tạo nên những biến động xã hội tại Việt Nam. Trong khi đó, gần như chỉ các nước thuộc Liên minh Châu Âu  cho thấy những hành động cụ thể trong việc thực hiện chính sách KTTH. Đối với Việt Nam, phát triển theo mô hình này hẳn sẽ gặp không ít thách thức?

    - Theo tôi, khái niệm liên quan đến mô hình KTTH đã có ở Việt Nam từ cách đây 20 năm với những định danh khác. Đó là mô hình VAT (Vườn - Ao - Chuồng), một mô hình chúng ta áp dụng khá thành công. Ngoài ra, các khái niệm “khu công nghiệp sinh thái - ecological industrial zone”, “sản xuất sạch hơn - cleaner production”, “Không phát thải - zero emission”, tái chế, tái sử dụng, tái sản xuất - một phần của KTTH - cũng được đề cập nhiều trong thời gian qua. Các khái niệm này đã được thể hiện trong các chính sách của Đảng và Nhà nước liên quan đến công tác bảo vệ môi trường và được các trường, viện triển khai nghiên cứu như Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường- Bộ Tài nguyên và Môi trường, Viện Môi trường và Tài nguyên - ĐHQG-HCM. Điều này cho thấy việc áp dụng mô hình KTTH có những thuận lợi đáng kể.

    Tuy nhiên các thách thức đặt ra cũng không hề nhỏ.

    Thách thức lớn nhất là làm thay đổi nhận thức của người dân và doanh nghiệp về mô hình và giá trị của KTTH. Việc nhận thức đúng bản chất của KTTH bắt đầu từ khâu thiết kế đến triển khai trong tất cả ngành và lĩnh vực, đòi hỏi sự phối hợp của từng cá nhân, doanh nghiệp và cấp quản lý để tạo một chuỗi mắt xích vận hành trơn tru trong từng công đoạn. Điều này phụ thuộc rất lớn vào nỗ lực của người dân, cộng đồng doanh nghiệp và chính sách của nhà nước.

    Thách thức thứ hai, Việt Nam tuy là nước đang phát triển nhưng phần lớn các công nghệ đều lạc hậu, lỗi thời, quy mô sản xuất nhỏ lẻ nên khó tối ưu hóa dây chuyền sản xuất để giảm thiểu các rủi ro hoặc thay đổi nguyên liệu như mong muốn.

    Thứ ba, Việt Nam hiện chưa có đủ hành lang pháp lý cho phát triển KTTH, dễ dẫn đến một nền KTTH mang tính tự phát và manh mún. Khi đó KTTH khó có thể thực hiện được vai trò và sứ mạng của mình đối với nền kinh tế quốc gia.

    Thứ tư, Việt Nam chưa có bộ tiêu chí nhận diện, đánh giá và phân loại chính xác mức độ phát triển của KTTH. Do vậy thiếu thông tin để biết được nền kinh tế chúng ta đang nằm ở đâu trong quá trình phát triển KTTH.

    Cuối cùng là chưa có đội ngũ chuyên gia giỏi về thiết kế, tái chế, tái sử dụng. Nguồn lực về con người là một trong những mắt xích quan trọng, đưa ra các giải pháp sáng tạo, đổi mới đóng vai trò then chốt trong sự thành công của KTTH. Chúng ta đang thiếu rất nhiều chuyên gia công nghệ và chuyên gia liên quan kinh tế, nghiên cứu chính sách KTTH. Đây sẽ là thách thức rất lớn vì hiện nay Việt Nam chưa có chuyên ngành đào tạo lĩnh vực này.

    Như vậy có thể tóm lược các thách thức trên tập trung chủ yếu ở các khâu:  nhận thức - hợp tác - đổi mới - công nghệ - chính sách.

    * Ý tưởng về việc thành lập ICED đầu tiên tại Việt Nam đã diễn ra thế nào, thưa ông?

    - ICED xuất phát từ ý tưởng muốn kết hợp nguồn lực của ĐHQG-HCM và doanh nghiệp trong nước nhằm đưa ra giải pháp, gợi ý chính sách cho Chính phủ giải quyết các vấn đề liên quan phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường, và hướng đến phát triển bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế và các định hướng của Đảng và Nhà nước Việt Nam. PGS.TS Huỳnh Thành Đạt - Giám đốc ĐHQG-HCM, ông Phạm Phú Ngọc Trai - Chủ tịch Công ty tư vấn Hội nhập toàn cầu và ông Don Lam - Tổng Giám đốc điều hành Quỹ VinaCapital, đã khởi xướng và chỉ đạo trực tiếp việc xây dựng Viện từ tháng 5/2019. Tôi được giao nhiệm vụ chủ trì xây dựng đề án thành lập Viện cùng một số cá nhân trong và ngoài ĐHQG-HCM. Sau giai đoạn chuẩn bị và được sự góp ý của Hội đồng khoa học, Hội đồng ĐHQG-HCM, các phòng, ban chức năng, ICED chính thức thành lập theo Quyết định số 108/QĐ-ĐHQG-KHTC ngày 27/2/2020 của Giám đốc ĐHQG-HCM. 

    * Thưa ông, mục tiêu và những hoạt động của ICED trong thời gian tới là gì?

    - Mục tiêu lớn nhất của chúng tôi là xây dựng ICED trở thành một trung tâm nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo và chuyển giao giải pháp khoa học công nghệ, chính sách trong phát triển KTTH tại Việt Nam trên nền tảng một hệ sinh thái Doanh nghiệp - Chính phủ - Đại học (đặc biệt nguồn lực từ ĐHQG-HCM), giữ vai trò kết nối nền KTTH của thế giới với Việt Nam và ngược lại.

    Trước mắt, ICED sẽ hoàn thiện về cơ cấu tổ chức, xây dựng chiến lược phát triển và hình thành các nhóm nghiên cứu; kết nối doanh nghiệp, cơ quan nhà nước và cộng đồng khoa học (trong nước và quốc tế) trong nghiên cứu các giải pháp công nghệ, đổi mới sáng tạo và tư vấn chính sách phát triển KTTH.

    Hiện nay, ICED có Ban Cố vấn gồm PGS.TS Huỳnh Thành Đạt - Giám đốc ĐHQG-HCM, ông Phạm Phú Ngọc Trai - Chủ tịch Công ty tư vấn Hội nhập toàn cầu, ông Philipp Rösler - nguyên Phó Thủ tướng Đức cùng Hội đồng Viện gồm đại diện của các nhà khoa học, nhà quản lý trong và ngoài ĐHQG-HCM, và doanh nghiệp (Nutifood, VinaCapital, GIBC). Ban Cố vấn và Hội đồng khoa học hỗ trợ ICED trong việc định hướng chiến lược hoạt động, phát triển các mối quan hệ hợp tác trong nước và quốc tế.

    ICED sẽ triển khai 15 - 20 đề tài nghiên cứu khoa học, dự án liên quan đến KTTH, đặc biệt phục vụ nhu cầu và xu hướng phát triển bền vững của các doanh nghiệp; chuyển giao 5 - 10 công nghệ về KTTH cho doanh nghiệp và cơ quan nhà nước, đặc biệt ở TP.HCM, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long.

    Đồng thời, Viện sẽ thực hiện các báo cáo khoa học và công bố quốc tế liên quan KTTH; tổ chức 5 - 10 lớp bồi dưỡng kiến thức về KTTH cho các nhóm đối tượng khác nhau như nhà nước, doanh nghiệp, nông dân, học sinh - sinh viên, tổ chức xã hội… cũng như tham gia tổ chức các sự kiện, hoạt động nâng cao nhận thức cộng đồng. Đặc biệt, ICED sẽ xuất bản tạp chí tóm lược chính sách “Kinh tế tuần hoàn và Bền vững”.

    Trong 5 năm tới, ICED nỗ lực phấn đấu trở thành một trong những đơn vị hàng đầu Việt Nam và trong khu vực về lĩnh vực nghiên cứu và triển khai KTTH.

    Trân trọng cảm ơn ông đã trả lời phỏng vấn.

    PHIÊN AN thực hiện

    Kinh tế tuần hoàn: Giải pháp tái tạo tài nguyên

    Theo ông Philipp Rösler - nguyên Phó Thủ tướng Đức, nguyên CEO Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), cố vấn của ICED, mô hình kinh tế tuyến tính hiện tại chỉ dựa trên nền tảng Lấy (Take), Tạo ra (Make) và Vứt bỏ (Disposal) đã khiến chúng ta đối diện với nhiều thách thức. Đó là nguồn tài nguyên hữu hạn đang cạn kiệt, môi trường tự nhiên bị tàn phá bởi lượng rác thải khổng lồ và mất hàng trăm năm mới tiêu hủy hoàn toàn, sức khoẻ con người bị đe dọa do môi trường sống như nguồn nước, không khí… xuống cấp trầm trọng.

    “Để góp phần giải quyết vấn đề này, mô hình KTTH ra đời dựa trên nguyên tắc giảm thiểu sử dụng nguồn tài nguyên, tái tạo tài nguyên, tăng vòng đời sử dụng sản phẩm bằng cách tái sử dụng, tân trang và tái chế. Đây sẽ là giải pháp cho mô hình phát triển bền vững của chúng ta” - ông Philipp Rösler nhấn mạnh.

    Nguyên Phó Thủ tướng Đức cho biết thêm, các nước thuộc khối châu Âu đã đi trước khá lâu trong việc phát triển mô hình KTTH và đã đạt được kết quả rất tốt về kinh tế, môi trường và xã hội. Ông cũng cam kết sẽ hỗ trợ ICED phát triển xứng đáng với tầm nhìn và sứ mạng đã đề ra.

    Vui lòng nhập nội dung
    Vui lòng nhập mã xác nhận

    Hãy là người bình luận đầu tiên