Đó là chia sẻ của nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân - tác giả của công trình khảo cứu nổi tiếng Hoàng sa, Trường Sa - Nghiên cứu từ sử liệu Trung Quốc - diễn giả tại tọa đàm khoa học “Sử liệu Việt Nam và Trung Quốc: khả năng khai thác và những vấn đề cần lưu ý” do Trung tâm Nghiên cứu Trung Quốc - Trường ĐH KHXH&NV ĐHQG-HCM tổ chức sáng 7/12.
Theo nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân, từ năm 1932, tác giả Phùng Thừa Quân của Trung Quốc đã soạn quyển An nam thư lục, là bảng thư mục chép về các tác phẩm văn sử Hán Nôm Việt Nam do người Việt Nam soạn. “Đây có thể xem là công trình cơ bản về Việt Nam học đương thời ở Trung Quốc” - ông Quân nhận định.
Sau đó, Trung Quốc chú ý soạn thư mục riêng cho "sách Trung Quốc có chép về Việt Nam", cụ thể đến năm 1956 có Quốc lập trung ương đồ thư quán của Đài Bắc soạn thư mục chuyên đề, ghi nhận khoảng 200 nhan đề, in trong Trung Việt văn hóa luận tập. Gần đây nhất có Trương Tú Dân cũng soạn bảng thư mục in trong Trung Việt quan hệ sử luận văn tập (NXB Văn sử triết, Đài Bắc, 1992) cập nhật thêm các sách viết vào thời Dân quốc. Ở mảng sách thư mục này, hiện Việt Nam vẫn chưa làm.
Về tình hình khai thác sử liệu, phía Trung Quốc cũng có nhiều công trình đáng kể. Ông Phạm Hoàng Quân lưu ý bộ sách có tính hệ thống hóa sử liệu là: Trung Việt quan hệ sử tư liệu tuyển biên (chia làm hai bộ: cổ đại và cận đại) do Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc chủ trì biên soạn, trích lục sử liệu liên quan nhiều đến lịch sử quan hệ hai nước: chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự, Hoa kiều...
Nhà nghiên cứu cổ sử Phạm Hoàng Quân đưa ra các điểm cần lưu ý khi khai thác sử liệu Trung Quốc để “khỏi mất công hoặc không phân biệt được chân - giả”. Theo đó, giới nghiên cứu cần tiếp cận thật sát sao cách tiếp cận hoặc phân tích của học giới Trung Quốc. Có như vậy, mới có thể nhận ra những sai sót nếu có từ phía các nhà nghiên cứu Trung Quốc.
Ông Phạm Hoàng Quân dẫn một ví dụ “xương máu” cho điểm này, là trường hợp nhà nghiên cứu nổi tiếng Đới Khả Lai của Trung Quốc đã nhầm lẫn cách dùng từ "Hoa nhân" của Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thông chí là người Hoa, mà không biết rằng “Hoa nhân” ở đây dùng để chỉ người Việt (người Kinh).
Đồng thời, cần tham khảo trực tiếp các văn bản gốc kể cả sử liệu Trung Quốc và sử liệu Hán Nôm Việt Nam. Yêu cầu này đặt ra khi tiếp cận các công trình nghiên cứu của học giới phương Tây, họ tiếp cận sử liệu chữ Hán, dịch sang tiếng Anh, Pháp, rồi đến nay học giả Trung Quốc dịch ngược trở lại tiếng Trung, tiềm ẩn khả năng sai lạc, nếu không dựa trên văn bản gốc sẽ dễ sa vào sai lầm.
Cuối cùng, theo nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân, Việt Nam chỉ mới chú ý khai thác nguồn sử liệu cơ bản, riêng những sử liệu cần cho việc khảo chứng thì còn rất ít, chưa xứng tầm. Ở điểm này, do sử liệu phía Trung Quốc quá nhiều, nên học giới và dịch giả Việt Nam nếu làm cần lưu ý việc phân nhóm, phân loại, xác định thể lệ và niên đại để nhằm hướng ưu tiên cho sử liệu gốc.
“Chẳng hạn nhiều người nghe bộ Tư trị thông giám của Tư Mã Quang nổi danh, nhưng đây là bộ sử biên niên, chép các sử kiện trước thời Tống theo quan điểm của vua nhà Tống, như vậy thì sử liệu trong bộ này ít có giá trị hơn sử liệu gốc nằm ngay tại các bộ chính sử trước thời Tống” - ông Quân dẫn một thao tác cần thiết khi chọn cách tiếp cận sử liệu.
PHAN ANH
Hãy là người bình luận đầu tiên